Venice là điểm đến cuối cùng trong chuyến đi tới nước Ý của tôi kéo dài hơn 1 tuần. Tôi bắt chuyến tàu sớm từ Verona trong một sáng mưa tầm tã. Bước xuống nhà ga Venezia Santa Lucia, trời vẫn mưa lất phất, tôi đã nhìn thấy cây cầu Salzi vắt ngang qua dòng kênh lớn xanh biếc và những dòng khách du lịch đang xếp hàng mua vé phà ở bến tàu. Venice rất đẹp, ít nhất là đẹp như trong trí tưởng tượng của tôi, dù cho hôm nay thời tiết không ủng hộ lắm. Có lẽ cũng thật thừa thãi khi tôi phải nói Venice đẹp như thế nào. Và nếu bạn không thấy Venice đẹp qua những bức ảnh tôi chụp, thì đó là do khả năng chụp ảnh của tôi, và tôi cũng tự thấy hổ thẹn bởi ngôn từ của mình không đủ để nói hết ra những gì tôi đã thấy.

Sơ lược về Venice

Xuống đến ga Santa Lucia, tôi kéo vali lách qua dòng người tấp nập, len lỏi giữa những con phố nhỏ còn ướt nhẹp dưới mưa uốn lượn qua những dòng kênh xanh, qua những câu cầu nhỏ cong cong, về khách sạn. Cất hành lý, tôi hỏi lễ tân khách sạn gợi ý nhà hàng cho bữa trưa. Cô ấy gợi ý ngay quán ăn cạnh khách sạn. Tôi gọi đĩa spaghetti hải sản, vị mặn như thể lấy cả hơi thở của biển Adriatic, tạm thời tôi sẽ ngừng ăn Bolognese. Sau bữa trưa, tôi mua một chiếc vé sử dụng phương tiện công cộng tại Venice trong 48 giờ, rồi bắt đầu hành trình khám phá Venice.

Venice là một thành phố độc nhất vô nhị, nằm trên hơn 100 hòn đảo nhỏ trong đầm phá Venetian, kết nối với nhau bằng hơn 400 cây cầu và ngăn cách bởi hàng trăm con kênh nối  nhau như những mạch máu. Nơi đây không có ô tô, xe máy, chỉ có những con thuyền Gondola cổ kính, vaporetto (phà công cộng), và những lối đi bộ len lỏi giữa những bức tường xưa cũ. Thành phố này từng là một cường quốc thương mại vào thời Trung Cổ và Phục Hưng, đóng vai trò trung tâm trong các tuyến đường giao thương giữa châu Âu và phương Đông. Nó không chỉ giàu có về của cải mà còn là một trung tâm rực rỡ của nghệ thuật, kiến trúc, và âm nhạc.

Nếu chỉ nhìn thoáng qua, vẻ đẹp của Venice từng bị copy bởi rất nhiều những phiên bản “Venice thu nhỏ” mọc lên ở nhiều nơi, kể cả Việt Nam. Nhưng vẻ đẹp của Venice chỉ là phần vỏ mỏng manh, lớp “bèo dạt” trên bề mặt của một vương quốc từng ngự trị dưới hồ sâu. Tôi không ghét những nỗ lực làm đẹp không gian sống, nhưng tôi có ác cảm với những bản sao gượng gạo, vô hồn, và tệ hơn, khi người ta hài lòng với những bản sao lỗi đó rồi bảo nhau: “Cần gì phải đi đâu, ở đây cũng có Venice mà.” Đó là câu nói tôi từng nghe từ mẹ, mỗi lần tôi nói về ước mơ khám phá thế giới. Tôi ghét mỗi lần người ta nói “Nước mình đẹp thế này, cần gì phải đi đâu”, câu nói ấy nếu tôi không nhầm dùng để thúc đẩy du lịch nội địa thời kỳ đóng cửa biên giới do Covid, và nó chỉ phù hợp với thời kỳ đòng cửa. Tôi yêu quê mình, nhưng không vì thế mà tôi từ chối cơ hội được hiểu biết về quê hương của người khác. Tôi tự hào với vẻ đẹp mộc mạc, chân thật, đậm đà bản sắc của đất nước mình, nhưng không thể hứng thú với một “châu Âu giữa lòng Hà Nội” bị sao chép vụng về đến mức cái bóng cũng chẳng giữ được hồn. Bởi làm sao bạn có thể sao chép được hơi thở lịch sử, tầng tầng lớp lớp văn hóa, hay tinh thần tôn giáo và nghệ thuật của một thành phố như Venice chỉ bằng vài chiếc cầu cong và ngôi nhà màu sắc? Và bởi nước mình đẹp theo cách của mình, thì cớ chi phải sao chép gượng gạo.

Tôi nghe câu chuyện về cách Venice được xây dựng khi những người dân vùng Veneto xưa kia chạy trốn các cuộc xâm lược của người Lombard đã tìm đến đầm phá và bắt đầu dựng nhà trên những cọc gỗ đóng xuống lòng biển. Họ tạo ra thành phố từ nước. Nghe vậy, tôi không khỏi ồ à và thầm nghĩ, con người thực sự sáng tạo, và cũng thật gan dạ biết bao. Đi đến đầu tôi cũng không khỏi ồ à, vì Venice đẹp quá, choàng ngợp quá.

Hòn đảo thủy tinh Murano

Nơi đầu tiên tôi quyết định đến là đảo thủy tinh, Murano. Tôi lên phà đi đến đảo chính, rồi từ đó đi tiếp đến Murano. Chiếc phà điện phi thẳng ra biển lớn. Có một chuyện khiến tôi cũng mất kha khá thời gian lấy can đảm để đi ra đảo, đó là tôi bị say sóng, và tôi không thích cảm giác đi tàu nhỏ ra biển khi sóng dập dềnh. Trên tàu rất đông khách. Nó giống như một chiếc xe bus, không phải hành khách nào cũng có ghế, thậm chí họ còn đứng sát nhau khắp khoang rồi đến boong tàu. Mùa mưa, nước dâng rất cao, mấy lần đi nước còn bắn lên boong tàu. Thực sự tôi thấy không an toàn chút nào. Mỗi lần ngửi thấy mùi xăng và cảm giác dập dềnh trên thuyền, tôi không khỏi rung mình và thấy đầu vẫn quay quay dù đã ở trên bờ. Nhưng tôi thấy mình đã khá hơn rất nhiều so với hồi nhỏ, khi mà mỗi lần lên thuyền thôi sẽ nôn không ngóc đầu lên được. Nhưng tôi tự làm công tác tư tưởng cho mình, tôi đâu có nhiều cơ hội đến Venice, và tôi liều lĩnh phó mặc tất cả cho số phận.

Nghề thủy tinh ở Veniece rất phát triển từ thời La Mã. Đến năm 1291, Cộng hòa Venice buộc các xưởng chế tác thủy tinh phải rời khỏi trung tâm thành phố ra đảo Murano vì lo ngại lo sợ rằng những lò nung có thể thiêu rụi cả thành phố làm bằng gỗ. Từ đó, Murano không còn là một hòn đảo nhỏ biệt lập, mà đã trở thành mà trở thành trái tim của nghệ thuật thủy tinh châu Âu, cái nôi sáng tạo, nơi nghệ nhân truyền đời bí quyết thổi, cắt, tạo hình, pha màu thủy tinh như một “ngôn ngữ không lời”.

Đảo Murano khá vắng vẻ, ảm đạm, một vài cửa hàng bán đồ lưu niệm bằng thủy tinh. Tôi ước gì mình cũng có một ngôi nhà để có thể trang trí ô cửa sổ của tôi bằng những chùm bóng bay thủy tinh đầy màu sắc hay dán trên đường những chiếc kẹo thủy tinh ngọt ngào.

Bảo tàng Thủy Tinh là nơi trưng bày những tác phẩm thủy tin từ thời xưa. Nhìn qua những đồ bàn ăn, cũng không quá nhiều ấn tượng hơn so với những món đồ ta thấy trong siêu thị, nhưng 100 năm trước khi công nghệ, máy móc là điều gì đó xa xỉ người ta đã có thể làm ra chiếc ly tròn trịa, trong suốt. Trong bảo tàng còn có một cung điện bằng thủy tinh thu nhỏ.

Trung tâm Venice

Tôi ngồi lại đảo Murano khá lâu, trước khi hết lâng lâng rồi bắt tàu quay lại hòn đảo chính của quần đảo Venice – San Macro. Trên phà tôi gặp một gia đình người Mỹ gốc Hoa, từ Washington qua Ý và Thụy Sĩ du lịch. Chị gái đi cùng chồng và 3 con nhỏ, cố gắng bao quát đống hành lý và những đứa con trai chạy loanh quanh khắp tàu. Tôi ngồi trên ghế, chị nhiều lần nhìn tôi cười, rồi ngồi xuống hỏi chuyện tôi. Khi tôi nói tôi đến Ý một mình du lịch, chị cười nói “Tôi nghĩ đó là một trải nghiệm thú vị”. Cùng là người Châu Á với ngoại hình khá tương đồng, đứng giữa những người da trắng tóc vàng, tôi và chị dường như là hai phiên bản hoàn toàn khác nhau. Có điều gì đó khiến tôi rất ấn tượng ánh mắt của chị nhìn tôi, dù ngay từ đầu tôi đã cố tình lảng tránh. Và vì thế, tôi cứ nhớ mãi câu nói của chị, chuyến đi này là một trải nghiệm quá thú vị với tôi.

Venice trong mưa. Không phải những cơn mưa rào bất chợt của mùa hè, mà một kiểu mưa bền bỉ, trầm lặng, dai dẳng như thể thành phố này đang thì thầm kể chuyện dưới làn nước rơi lách tách trên mái ngói cũ kỹ. Những hạt mưa càng về chiều càng nặng hạt.

San Marco là hình ảnh đầu tiên bạn sẽ nhìn thấy khi gõ từ khóa Venice lên Google. San Marco không chỉ là một khu phố – nó là trái tim đập rộn ràng của Venice suốt hàng thế kỷ qua. Mỗi viên đá lát đường ở đây như thấm đẫm những cuộc diễu hành lộng lẫy của giới quý tộc xưa, những âm vang từ tiếng bước chân các thương nhân phương Đông, và cả những mộng mơ của hàng triệu du khách đã từng đứng sững giữa quảng trường lộng gió này.

Tôi tiến về phía quảng trường lớn Piazza San Marco nơi từng được ví như phòng khách của châu Âu”. Dưới trời mưa, không cản nổi những hàng ngường đông ghẹt đến nơi này. Ống kính của tôi cũng chẳng đủ lớn để bao trọn ngọn tháp cao giữa quảng trường. Quảng trường bao trọn 2 công trình lớn là vương cung thánh đường San Marco với mái vòm vàng rực rỡ, biểu tượng của Venice và Cung điện Doge, trung tâm quyền lực xưa của Cộng hòa Venice cùng hàng dài những hàng quán ở dưới những hành lang mái vòm cổ kính. Tiếng nhạc rộn ràng vang lên từ những nhà hàng quanh quảng trường.

Hơi thở Veniece

Trời tối dần, tôi tìm đường quay về hòn đảo chỗ khách sạn, và rồi lạc đường trong những mê cung nhỏ, cây cầu, nơi những góc phố khá giống nhau. Ra khỏi khu quảng trường San Marco, tôi thấy Venice không đông một chút nào. Có những khu phố dường như tôi chỉ đi một mình. Tôi cũng hơi sợ mỗi lần Google chỉ vào một cái ngõ hẹp chỉ vừa tán ô.

Ở Venice, chỗ nào cũng đẹp, đi đến đâu tôi cũng muốn chụp ảnh, và chụp không biết bao nhiêu cho đủ. Đó không phải kiểu đẹp cầu kỳ, hoa lệ. Đó là vẻ đẹp trầm lặng và cổ tích, như thể thời gian đã dừng lại ở đây từ nhiều thế kỷ trước, chỉ để giữ nguyên một thành phố như trong mộng. Tôi nói là mộng bởi thật khó tin người ta có thể xây một hòn đảo nhân tạo lớn và đồ sộ thế này, thật khó tin người ta có thể sống mà không dùng ô tô, xe máy, xe đạp, thậm chí còn phải tự làm ra một hệ thống nước ngọt, xử lý nước thải và rác. Venice có trường đại học, vô số bảo tàng, một minh chứng cho sự phát triển của khoa học và nghệ thuật. Trong những ngõ nhỏ là những cửa hàng thời trang xa xỉ, nơi mà chỉ nhìn thấy Valentino, Gucci, LV, Channel. Một điều tôi để ý, có thể đúng có thể sai, không biết do người ở Ý (hoặc những người đến Ý) giáu có, hay vì họ chỉ đầu tư ngoại hình khi họ đang ở trung tâm thời trang của thế giới, nhưng nếu như người ở London mặc đồ Zara, HM phần nhiều, thì ở Ý Valentino, LV người ta xách đầy đường.

Venice, với tôi, không chỉ là một điểm đến, mà là một phong cách sống. Là cách người ta thong thả chèo thuyền gondola giữa những dòng kênh kể cho du khách câu chuyện về Venice. Là cách những tòa nhà cổ nhuốm rêu phong mà vẫn kiêu hãnh đứng soi bóng xuống mặt nước. Là những ban công nhỏ với cửa sổ gỗ mốc đen. Venice là hơi thở, là nhịp tim chậm rãi, là những hạt mưa rơi trên mái ngói đỏ, là tiếng nói xì xào của ai đó đang đi thuyền dưới kênh, là mùi gió biển quyện lẫn mùi ẩm mốc đặc trưng của thành phố từng sống cùng nước suốt cả ngàn năm. Venice không cố gắng đẹp, nhưng vẫn đẹp một cách tự nhiên và đầy kiêu hãnh. Như một người phụ nữ già, vẫn mặc chiếc váy Valentino cũ, nhưng ánh mắt thì chưa từng mất đi ánh sáng thanh xuân.

Ngồi lặng ngắm mưa ở Venice

Sau một hồi lạc trong những mê cung ngõ nhỏ, kênh và cầu, một vài lần ra tới bờ sông nhưng không phải bến thuyền, từ chối đi phà vì sợ mùi xăng dầu, cuối cùng tôi cũng về tới gần khách sạn, chọn một nhà hàng rate cao nhất quanh đó để ăn tối. Đi một mình, nhà hàng xếp cho tôi chiếc bàn ngoài trời, dưới mái che, nhìn ra quảng trường nhỏ đang mưa. Tôi chọn món Spaghetti mực truyền thống của Venice. Một điều cần lưu ý là món Spaghetti này giữ nguyên phần mực đen của con mực, nên cả đĩa màu đen xì, và màu đen này không biến đổi trong dạ dày.

Venice rộng quá, không biết mấy ngày đi sao cho hết. Tôi ngồi với đĩa Spaghetti của mình khi trời dần tối. Mùi Spaghetti, bánh mì quyện với mùa mưa, tiếng nói chuyện xì xào trong nhà hàng, quyện với tiếng mưa lách tách, một cảm giác du lịch thật chân thật.

Đảo Burano đầy màu sắc

Ngày thứ 2 cũng là ngày duy nhất trọn vẹn ở Veniece, trời vẫn mưa. Tôi đi bộ ra hiệu sách cổ Libreria Acqua Alta. Nằm ẩn mình trong một con hẻm nhỏ ở khu Cannaregio, mới có 9h sáng Libreria Acqua Alta đã đông ghẹt khách du lịch. Tên gọi “Acqua Alta” (Nước cao) xuất phát từ thực tế Venice thường xuyên bị ngập lụt, và chủ hiệu sách đã sáng tạo ra cách bảo vệ sách bằng cách xếp chúng trong những thuyền nhỏ, thùng chứa và bồn tắm cũ ngay trong cửa hàng. Khi nước dâng lên, sách vẫn được giữ khô ráo theo cách rất “Venice”.

Ra khỏi hiệu sách, trời vẫn mưa, tôi ngồi nghĩ một lúc, xem liệu có nên tiếp tục bắt phà đi ra đảo Burano, mất gần 1 tiếng đi phà, dưới trời mưa này, hay sẽ tham quan những bảo tàng ở trung tâm Venice, và tôi quyết định đi Burano bởi vẻ đẹp khó cưởng của nó. Tôi phải nói là trời quá ưu ái tôi, khi tôi lên phà thì trời vẫn mưa, nhưng đến khi ra đảo, trời hửng nắng một chút, đủ để tôi thấy một Burano rực rỡ.

Bước ra khỏi không gian cổ tĩnh, trầm mặc với một màu nâu sẫn đặc trưng của trung tâm Veniece, Burano với những ngôi nhà nhỏ xinh xắn khoác lên mình lớp sơn màu sắc tươi sáng, từ vàng chanh, hồng phấn, xanh ngọc cho đến cam cháy. Người ta kể nguồn gốc những ngôi nhà đầy màu sắc này từ việc ngư dân sơn nhà theo các gam màu riêng để dễ dàng nhận biết từ xa, đặc biệt khi sương mù dày đặc bao phủ vùng đầm phá, hay họ có thể tìm ra ngôi nhà của mình để về nhà nhanh nhất sau những ngày đi biển dài.

Người dân đảo Burano nổi tiếng với nghề thêu ren thủ công tinh xảo, bắt đầu phát triển mạnh từ thế kỷ 16 và trở thành biểu tượng văn hóa đặc sắc của hòn đảo. Nghề ren Burano từng rất nổi tiếng khắp châu Âu, được các quý tộc và hoàng gia ưa chuộng, góp phần tạo nên danh tiếng và sự thịnh vượng cho đảo.

Trên Burano có tiệm kem rất ngon, đi một vòng quanh đảo, chụp đến hết cả pin máy ảnh, tôi lại vào ngồi ăn kem, đến giữa chiều bắt phà quay lại Veniece. Thứ 2 đầu tuần, nhiều bảo tàng đóng cửa, tôi cũng không đi được nhiều. Trời lại mưa nặng hạt.

Dưới những hạt mưa ở Venice

Tôi tìm một nhà hàng, ăn một bữa trưa muộn hoặc bữa tối sớm với món Spaghetti mực. Tôi ngồi trong quán, nhìn dòng người đi dưới tán ô trong con ngõ nhỏ, phía sau lớp kính mờ hơi nước. Đêm xuống thật chậm. Sáng nay tôi cũng vừa bị hỏng điện thoại như thể nó đã quá mệt sau những năm rong ruổi và cố gắng cùng tôi. Dưới cơn mưa dai dẳng của Venice, sau hơn một tuần ở Ý, và giờ tôi cũng thấy mỏi mệt, muốn ngồi lại. Tôi cảm thấy sự lặng lẽ trong những ngày ở Ý đánh thức nhiều điều trong tôi. Chúng ta thường lên đường với danh sách những nơi “phải đến”, những món ăn “phải thử”, và những bức ảnh “phải chụp”. Tôi không thể chụp hình một Veniece rực rỡ dưới nắng vàng và bầu trời xanh ngắt nhưng chẳng hiểu sao tôi nhớ cái cảm giác ngồi trong quán nhỏ nhìn Veniece dưới mưa đến vậy. Đến nỗi, tôi muốn quay lại Veniece chỉ để ngồi và ngắm nhìn cuộc sống chậm rãi như thế.

Có những chuyến đi mà điểm đến không nằm trên bản đồ, mà nằm ngay bên trong ta. Venice trong mưa dạy tôi bài học đó. Tôi chẳng có lịch trình nào cả, và nếu có thì nó cũng phá sản trong trời mưa này, tôi bắt đầu chú ý đến những điều nhỏ bé: tiếng nước róc rách dưới cầu, đôi vợ chồng già bước chậm rãi trong mưa, mùi gỗ ẩm trộn cùng mùi cà phê mới xay, hơi ẩm lạnh nhẹ phủ lên da, và có cả cảm giác cô đơn nhẹ nhàng len lỏi vào từng bước chân. Đi dưới mưa, thấy nước kênh dâng lên sát bờ, tôi lại nhớ ngày trước đọc đâu đó người ta nói rằng, khoảng mấy chục năm nữa Venice sẽ bị chìm dưới biển sâu, do nước biển dâng. Khi đó tôi hứa tôi sẽ đến Venice trước khi thành phố ấy bị ngập, và giờ Venice đã ở đây, ôm trọn lấy tôi. Venice, một thành phố đang dần chìm, dường như cũng đang nhắc tôi rằng mọi thứ đều sẽ trôi qua, vì vậy hãy hiện diện trọn vẹn với hiện tại.

Lần nào cũng vậy, cứ mỗi lần đến một nơi nào đó, tôi lại thấy nó khác với những gì người ta miêu tả trong những tạp chí du lịch, và khác cả những gì bạn tôi kể. Tôi không nghe thấy tiếng hát của những người lái đò, và hình như cũng chẳng tạp chí du lịch nào miêu tả Venice mùa mưa. Cảm giác Venice này là của riêng tôi, một Venice không rực rỡ dưới nắng vàng, mà trầm mặc, ướt sũng trong từng giọt mưa rơi. Có lẽ, đó mới chính là điều mà những chuyến đi thật sự muốn mang đến, không phải là những điểm đến được tô vẽ sẵn, mà là những trải nghiệm thầm lặng, riêng tư, để ta tìm thấy một phần của chính mình trong mỗi góc phố, mỗi cơn mưa. Hóa ra, sau một hành trình dài đến Venice, tôi không chỉ đơn thuần là đến để khám phá thành phố cổ kính giàu lịch sử này, mà còn để nghe Venice kể câu chuyện của chính tôi, không phải qua những sắc màu rực rỡ, mà bằng sự dịu dàng và chân thật nhất. Và chính trong sự khác biệt ấy, Venice trong tôi trở thành một câu chuyện cá nhân, không thể nhầm lẫn, không thể trùng lặp. Một bí mật nhỏ giữa tôi và Venice, trong những ngày mưa dài, những ngày mà thế giới dường như chỉ còn lại âm thanh của trái tim mình.

Venice – Nơi hội tụ của trí tuệ và sáng tạo

Sáng cuối cùng ở Venice, trời vẫn mưa nặng hạt. Cô bạn lễ tân khách sạn cho tôi mượn chiếc ô để đi ra ngoài. Tôi ghé vào quán cà phê Ý uống cà phê ăn sáng rồi qua bảo tàng Academia cách khách sạn khoảng 15 phút đi bộ. Trên đường qua bảo tàng, tôi đi qua cầu Ponte di Rialto, cây cầu cổ nhất và nổi tiếng nhất bắc qua kênh Grande Canal. Cầu Rialto được xây dựng bằng đá, có thiết kế vòm đôi và hai bên cầu là các cửa hàng nhỏ bán đồ thủ công, quà lưu niệm, đặc sản. Cầu từng là trung tâm thương mại sầm uất của Venice suốt nhiều thế kỷ.

 Bảo tàng Gallerie dell’Accademia tọa lạc ở khu Dorsoduro, một trong những quận cổ kính và nghệ thuật nhất của Venice. Tôi là một trong những vị khách đầu tiên tham quan bảo tàng khi mở cửa ngày mới.

Venice nằm trên biển Adriatic, là cửa ngõ quan trọng nối Đông và Tây Âu, cũng như là điểm giao thương giữa châu Âu và châu Á. Nhờ thương mại phát triển thịnh vượng, Venice có nguồn lực tài chính dồi dào để đầu tư vào giáo dục, nghệ thuật và khoa học. Và đến Gallerie dell’Accademia, bạn sẽ nhìn thấy một phần sự đồ sộ đó. Tại bảo tàng tôi nhìn thấy một vài tác phẩm của Leornado Davinci, đặc biệt là bản giải phẫu cơ thể người. Trước khi đến Ý, tôi đi một vài lâu đài ở Anh và tìm hiểu về thời Trung Cổ. Tiếp nối thời Trung Cổ là thời Phục Hưng, giai đoạn chói sáng của lịch sử châu Âu từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 17. Tôi cảm giác như mình vừa đọc một câu chuyện dài và mạch lạc.

Ngay từ thời kỳ Phục Hưng, Venice đã chú trọng phát triển giáo dục nghệ thuật và khoa học, thu hút nhiều học giả, nghệ sĩ, và nhà tư tưởng đến đây để nghiên cứu và sáng tạo. Nổi bật nhất là Accademia di Belle Arti di Venezia, Học viện Mỹ thuật Venice, được thành lập vào năm 1750. Đây là một trong những học viện mỹ thuật lâu đời và danh tiếng nhất ở Ý, nơi đào tạo ra nhiều nghệ sĩ tài ba đã góp phần làm rạng danh nghệ thuật Venice trên thế giới. Ngoài ra, Venice còn có nhiều thư viện cổ và các học viện nghiên cứu đa dạng khác, như Accademia degli Incogniti – một hội học thuật nổi tiếng thế kỷ 17, nơi các trí thức thảo luận về triết học, văn học và khoa học. Các học viện này không chỉ giúp bảo tồn và phát triển kiến thức mà còn thúc đẩy sự giao thoa văn hóa, góp phần đưa Venice trở thành một trung tâm trí tuệ sôi động của thời đại.

Venice đã phát triển học thuật không chỉ dựa vào sự giàu có và vị trí chiến lược mà còn nhờ sự kết hợp hài hòa giữa thương mại, nghệ thuật và tri thức. Điều này tạo nên một thành phố không chỉ rực rỡ về kiến trúc, nghệ thuật mà còn sâu sắc về văn hóa và học thuật, góp phần làm nên vẻ đẹp vượt thời gian của Venice. Tôi thán phục sự giàu có và trí tuệ của thành phố này. Khi sự giàu có nhờ giao thương, và vẻ đẹp nên thơ đã không biến Venice thành chốn ăn chơi xa họa bậc nhất mà là cái nôi của những phát minh, những tác phẩm nghệ thuật kinh điển, và những ý tưởng khai phóng mở ra tương lai cho cả châu Âu. Sau những đêm trường mờ mịt của thời Trung Cổ, khi châu Âu còn chìm trong bóng tối của những hạn chế và xung đột, Venice đã nổi lên như một ngọn hải đăng rực rỡ dưới ánh sáng của thời kỳ Phục Hưng. Ở đây, những người dân thành phố không chỉ dùng sự giàu có để hưởng thụ mà còn dồn tâm huyết và trí tuệ để phát triển khoa học, nghệ thuật và kiến trúc. Phải chẳng họ biết rằng tài sản lớn nhất không phải là vàng bạc châu báu, mà là tri thức, là cái đẹp và sự sáng tạo. Vậy tại sao người ta không thể sao chép được tinh thần ấy, không thể mang ánh sáng tri thức ấy về những đô thị mới đang trỗi dậy ở quê tôi, mà chỉ bắt chước một cách hời hợt, vụng về vẻ bề ngoài hào nhoáng, trong khi lại bỏ quên đi cả linh hồn, tinh thần thật sự của nó, đồng thời quên luôn cả cội rễ của chính mình?

Tôi ra ngoài, thấy hàng người đông ghẹt đang xếp hàng vào bảo tàng dưới trời mưa rả rich. Tôi nhìn ra cây cầu gỗ Accademia trước cửa bảo tàng, nhìn thấy những con nước nhỏ tràn lên bờ. Lạ thật, trời mưa nhưng nước kênh vẫn xanh. Nhìn con kênh lớn dưới mưa thật hùng tráng. Tôi thầm nghĩ, về nhanh thôi, nếu Venice lụt tôi sẽ không thể nào về được.

Tạm biệt Veniece

Tôi ra bến xe, một bạn người địa phương chỉ cho tôi chỗ đợi xe bus ra sân bay. Vì Có 2 sân bay, nên cũng cần chú ý. Tạm biệt Venice, tôi kết thúc chuyến đi hơn 1 tuần ở Ý. Tôi thích chuyến đi này, bởi nó cho tôi vượt qua những điều tôi sợ hãi, tin tưởng thế giới này nhiều hơn và để tôi hiểu rằng mỗi chuyến đi không chỉ là hành trình bên ngoài, mà là hành trình lắng nghe sâu thẳm bên trong.

Trở về Anh, tôi có nhiều thay đổi. Tôi trải qua những ngày cũng không mấy dễ chịu, buồn chán, bực tức, tội lỗi, mâu thuẫn, nhưng rồi tôi nhận ra, khi tôi không còn thấy dễ chịu với những điều cũ nữa, đó là lúc tôi cần buông đi và thay đổi. Và chính bản thân tôi đã thay đổi mà, tôi không còn sợ hãi nữa, hay ngay cả khi tôi biết mình có thể tận hưởng hiện tại dù mưa hay nắng, hay vô vàn những điều ngẫu nhiên không như ý hay dưới bất cứ hình thái nào, thế giới quanh tôi đã thay đổi. Như bao khoảng thời gian khủng hoảng đã trải qua, một lần nữa tôi lại nhìn sâu vào chính mình, bóc tách thêm một lớp vỏ dày của thói quen và những tổn thương đã bám rễ quá lâu. 

Tôi sẽ quay lại Ý, ít nhất trong trong thời hạn Visa Schengen tôi có hiện tại để hiểu hơn về đất nước giàu lịch sử, văn hóa này và tìm kiếm những câu chuyện của chính tôi. Điểm đến tôi muốn đi tiếp theo: Florence – Pisa – Rome – Napolie – Alberobello.  

Cõ lẽ chúng ta đi không phải để khám phá thế giới, mà thế giới cho chúng ta tò mò về câu chuyện của chính mình.

Cám ơn bạn đã đọc đến đây. Nếu bạn thấy thú vị và bổ ích hãy chia sẻ với bạn vè và đừng quên theo dõi qua Email để không bỏ lỡ những bài viết mới trên Blog. Bạn có thể để lại bình luận để cho mình biết nội dung nào bạn đang quan tâm, cũng như để lại email để mình gửi cho bạn những tài liệu hữu ích.

Theo dõi để nhận Newsletters

Theo dõi Fanpage để nhanh chóng cập nhật bài viết và chia sẻ mới nhất: https://www.facebook.com/Violetstoryblog